Tiêu đề, Mô tả, Menu, Labels Blog

Thứ Năm, 12 tháng 9, 2019

NGÀY GIỖ VÀ CÁCH GHI MỘ CHÍ

1. GIỔ

Là một buổi lễ, nghi thức theo phong tục tập quán của người Việt nhằm tưởng nhớ đến những người đã qua đời. Giỗ được tổ chức vào đúng ngày mất theo Âm lịch của người được thờ cúng

Ý nghĩa của giỗ là để nhắc nhở con cháu về những người đã đi trước; gắn kết tình cảm của các thành viên trong cùng một gia đình, dòng họ, đôi khi trong cùng nghề

Cúng giỗ là một buổi lễ kỷ niệm ngày người mất qua đời quan trọng của người Việt, được tính theo Âm lịch. Ngày này là ngày để thể hiện tấm lòng thủy chung, thương xót của người đang sống với người đã khuất, thể hiện đạo hiếu đối với Tổ tiên. Nhà giàu thì tổ chức làm giỗ linh đình, mời người thân trong dòng họ, bạn bè gần xa, anh em bằng hữu về dự giỗ. Nhà nghèo thì chỉ cần lưng cơm, đĩa muối, quả trứng, ba nén nhang, một đôi nến và vài món ăn giản dị cúng người mất cũng đã có lòng Thành kính đối với người đã mất. Lòng thủy chung, thương xót người đã khuất chỉ phụ thuộc vào việc con cháu phải nhớ ngày người mất để làm giỗ, không liên quan đến việc làm giỗ lớn hay nhỏ

Thân bằng, cố hữu của những người quá cố nếu thấy lưu luyến thì đến dự giỗ theo ngày đã định sẵn từ trước, không cần phải đợi đến thiệp mời như tiệc cưới, lễ mừng, không nên có chuyện hữu thỉnh hữu lai, vô thỉnh bất đáo (有請有来, 无请不到), nghĩa là có mời thì đến, không mời không đến

2. CÁCH KHẤN CÚNG TRONG CÚNG GIỔ:

Theo sách "Thọ Mai Gia Lễ" việc cúng giỗ chỉ thực hiện trong 5 đời theo phép "Ngũ đại đồng đường", đến đời thứ 6 người chịu trách nhiệm cúng giỗ sẽ rước vào nhà thờ họ để khấn chung với cộng đồng Gia Tiên trong những dịp Xuân Tế hay Chạp Tổ và không cúng giỗ riêng nữa

Ngũ Đại

tính trực tiếp từ bản thân người chịu trách nhiệm cúng giỗ
Can ông: khấn là Hiển Cao Tổ Khảo
Can bà: khấn là Hiển Cao Tổ Tỷ

Tứ Đại

tính trực tiếp từ bản thân người chịu trách nhiệm cúng giỗ
Cố ông: khấn là Hiển Tằng Tổ Khảo
Cố bà: khấn là Hiển Tằng Tổ Tỷ

Tam Đại

tính trực tiếp từ bản thân người chịu trách nhiệm cúng giỗ

Ông nội: khấn là Hiển Tổ Khảo
Bà nội: khấn là Hiển Tổ Tỷ
Nhị Đại

tính trực tiếp từ bản thân người chịu trách nhiệm cúng giỗ

Cha đẻ: khấn là Hiển Khảo

Mẹ đẻ: khấn là Hiển Tỷ

Nếu cha vợ : (trường hợp bên vợ không còn người thừa tự) khấn là Hiển Nhạc Phụ

Mẹ vợ: (trường hợp bên vợ không còn người thừa tự) khấn là Hiển
Nhạc Mẫu

Bác ruột: (anh bố) là Hiển Bá Khảo, còn bác dâu (chị dâu bố) là Hiển Bá Tỷ, chú ruột (em bố) hoặc thím (em dâu bố) thì sửa chữ Bá thành chữ Thúc. Trường hợp cô ruột (chị hoặc em gái bố) thì bỏ các chữ Bá, Thúc đi mà thay chữ Cô vào vị trí đó, các trường hợp trên nếu chết non khi chưa đến "tuổi vị thành niên" đều phải thêm chữ Mãnh đằng trước mà bỏ chữ Hiển và chữ Khảo đi.

Nhất Đại

tính trực tiếp từ bản thân người chịu trách nhiệm cúng giỗ

Nếu anh trai là Bào Huynh, anh cùng bố khác mẹ gọi là: Thân Huynh, anh cùng mẹ khác bố gọi là Thệ Huynh, trường hợp người anh đó chết non khi còn ở "tuổi vị thành niên" thì thêm chữ Mãnh vào trước chữ Huynh. Tương tự nếu người quá cố là em trai thì thay chữ Huynh bằng chữ Đệ, nếu là chị gái đổi thành chữ Tỷ và em gái thì sửa là chữ Muội. Còn trường hợp chị dâu (nếu chưa có con với anh mà ở vậy không tái giá) thì thay chữ Huynh bằng chữ Tẩu và em dâu thì đổi gọi thành Đệ Phụ.

Vợ: là Hiền Thê, chồng là Lương Phu;

Nghịch Cảnh

Nếu con trai không may chết trước cha mẹ khi đã đến tuổi thành niên mà chưa có gia đình (trong trường hợp các em còn nhỏ) thì gọi là Yểu Tử, tương tự con gái là Yểu Nữ.

Ghi chú:

Tất cả những trường hợp chết chưa đến tuổi thành niên (nữ dưới 13 tuổi, nam dưới 16 tuổi) không có cúng giỗ riêng mà đều khấn chung là Thương Vong Tòng Tự.

2. CÁCH GHI TRÊN MỘ CHÍ

Ví dụ: Hàng dọc ở giữa:

Hiển tổ khảo Lê quý công húy Hòa, tự Phúc Chính chi mộ.

Dịch: Mộ ông nội Lê Văn Hòa, tên chữ là Phúc Chính.

Hàng ngang cuối cùng:

Thọ thất thập tuế

Dịch: thọ 70 tuổi

Hàng dọc bên phải:

Tam nguyệt nhị thập tứ nhật kị

Dịch: Kị ngày 24 tháng 3

Hàng dọc bên trái:

Trưởng tôn Lê Văn Học phụng tự

Cách ghi đơn giản bằng Tiếng Việt như sau:

Đời thứ nhất: Đời Can- Can ông ……. Mã hóa D1. Can bà cả:……. D1.1

Sau đó là: Năm sinh:yyyy

Mất: d/m/yyyy

Hết

Thứ Hai, 22 tháng 7, 2019

GIA PHẢ THỨ THỨ CHI CAN CẦU

LÀNG QUAN NỘI, XÓM ĐẠI ĐỒNG, XÃ ĐÔ LƯƠNG, NGHỆ AN

(Cập nhật bổ sung tháng 29/8/2025)

I. LỜI TỰA

Bản chữ hán “Dương Trọng lịch thế gia phả”do các bậc tiền bối trong họ tộc thông thạo chữ Nho ghi chép trước năm 1945 là thời kỳ phong kiến thuộc Pháp, chưa lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Cửa Giáp Chi Trưởng có cụ Dương Trọng Xân (1882-1937) con thứ cụ Phó Tiệp (Phó Bảng) là thầy Xân dạy chữ Nho khởi xướng viết gia phả. Cụ Dương Trọng Khoan (thầy Mày) ở Cửa Giáp có biết chữ nho nhưng mất sớm, gửi con Dương Trọng Lạc cho ông ngoại Bang Hiên ăn học, thông hiểu chữ nho viết tiếp. Thời gian này ông Trọng Tỏng em ruột ông Trọng Khoan lên làm Tộc trưởng để phụng tự, quản lý ruộng đất hương hoả và lưu giữ bản Gia phả chữ nho đầu tiên. Năm 1950-1955, Trọng Tạo con ông Tỏng là phú nông cất giấu gia phả sợ bị đội “Cải cách Ruộng đất” trịch thu. Sau này con ông Tạo là ông Tâm Tuyền (1923 - 2004) đi bộ đội Nam Tiến từ năm 1946 về quê tìm thấy bản Gia phả chữ nho trên mái nhà do cha mình cất dấu và được lưu truyền lại cho đến nay tại Trưởng Tộc đại tôn

GIA PHẢ CHI THỨ 2 - CAN THUYÊN

LÀNG QUAN NỘI, XÓM ĐẠI ĐỒNG, XÃ ĐÔ LƯƠNG, NGHỆ AN

(Cập nhật bổ sung tháng 29/8/2025)

I. LỜI TỰA

Bản chữ hán “Dương Trọng lịch thế gia phả”do các bậc tiền bối trong họ tộc thông thạo chữ Nho ghi chép trước năm 1945 là thời kỳ phong kiến thuộc Pháp, chưa lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Cửa Giáp Chi Trưởng có cụ Dương Trọng Xân (1882-1937) con thứ cụ Phó Tiệp (Phó Bảng) là thầy Xân dạy chữ Nho khởi xướng viết gia phả. Cụ Dương Trọng Khoan (thầy Mày) ở Cửa Giáp có biết chữ nho nhưng mất sớm, gửi con Dương Trọng Lạc cho ông ngoại Bang Hiên ăn học, thông hiểu chữ nho viết tiếp. Thời gian này ông Trọng Tỏng em ruột ông Trọng Khoan lên làm Tộc trưởng để phụng tự, quản lý ruộng đất hương hoả và lưu giữ bản Gia phả chữ nho đầu tiên. Năm 1950-1955, Trọng Tạo con ông Tỏng là phú nông cất giấu gia phả sợ bị đội “Cải cách Ruộng đất” trịch thu. Sau này con ông Tạo là ông Tâm Tuyền (1923 - 2004) đi bộ đội Nam Tiến từ năm 1946 về quê tìm thấy bản Gia phả chữ nho trên mái nhà do cha mình cất dấu và được lưu truyền lại cho đến nay tại Trưởng Tộc đại tôn

Thứ Hai, 25 tháng 2, 2019

THÔNG BÁO ĐĂNG KÝ TÊN MIỀN, ĐĂNG TẢI GIA PHẢ DƯƠNG TỘC THỊNH SƠN

https://duong tronggiapha.blogspot.com

Kể từ 01/01/2014 sẽ tiến hành cập nhật gia phả họ Dương Thịnh Sơn trên trang Web có địa chỉ như sau: duongtronggiapha.blogspot.com
Đề̉ nghị các con cháu chắt trong và nước ngoài có ý kiến phản hồi xin liên hệ qua Facebook Don Dương hoặc bangduongtrong@gmail.com

Tên miền đã đăng ký trên cổng tên miền quốc tế của Bộ Thông tin truyền thông Việt Nam

ĐĂNG KÝ TÊN MIỀN CHO TRANG WEB:

duongtronggiapha.blogspot.com

Thong bao su dung ten mien quoc te

Hộp thư đến
confirm@thongbaotenmien.vn

17:8’, Th 5, 19 thang 9 2013

tới tôi, backup https://mail.google.com/mail/u/1/images/cleardot.gif

Dịch thư:

Tắt đối với: Tiếng Anh

Kinh gui: Dương Trọng Bảng

Quy chu the da thong bao su dung thanh cong ten mien quoc te sau day:
- duongtronggiapha.com
Voi account cua ban: duongtronggiapha.com
va password cua ban: xxxxxxxxxx
Ban hay su dung chuc nang thay doi mat khau tai duong
dan http://www.thongbaotenmien.vn de doi lai va luu giu mat khau cua minh.

Xin luu y: Hay quan ly account, password nay de su dung thay doi thong tin lien he, cap nhat bo sung ten mien trong qua trinh su dung tiep theo.

Cac yeu cau tu van, ho tro trong qua trinh su dung neu can xin moi lien he ve Bo Thong tin va Truyen thong theo dia chi:
- Email: quanlytenmienquocte@vnnic.net.vn
- Dien thoai: +84-4-5564944 (may le 900,901)

Kinh chao tran trong hop tac va chuc thanh cong.
vào lúc 9/09/2013 11:28:00 SA Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên Twitter Chia sẻ lên Facebook Chia sẻ lên Pinterest

Thứ Tư, 20 tháng 2, 2019

LƯỢC SỬ HỌ DƯƠNG VIỆT NAM

Tài liệu này được biên soạn trên cơ sở tham khảo các tài liệu: Lịch sử Việt Nam, lịch sử Họ Dương Việt Nam – Dương tộc kỷ sử, thần phả, sắc phong và tộc phả, gia phả của nhiều chi Họ Dương.

Họ Dương là một trong số những dòng họ lớn ở Việt Nam, có truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, có mặt trong suốt tiến trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của Dân tộc.

Thời Kinh Dương Vương

Năm 2879 TCN, Kinh Dương Vương lên ngôi vua, đặt tên nước là Xích Quỷ, Dương Lạc tướng (Lạc tướng Họ Dương) phù Vua Thủy Tổ dựng nước sơ khai, Kinh đô đóng tại Luy Lâu (Thuận Thành – Bắc Ninh).

Thời Hùng Vương thứ Nhất

Lạc Long Quân kế nghiệp, sinh Hùng Vương thứ Nhất, kinh đô về Phong Châu (Phú Thọ). Thái sư Quốc Công Dương Minh Tiết giúp Vua cải tên nước là Văn Lang, lập Hiến pháp nước Văn Lang, chia đất nước thành 15 bộ: Phong Châu (Phú Thọ), Vũ Ninh (Bắc Ninh – Kinh Bắc),… để dễ bề cai quản.