LÀNG QUAN NỘI, XÓM ĐẠI ĐỒNG, XÃ ĐÔ LƯƠNG, NGHỆ AN
(Cập nhật bổ sung tháng 29/8/2025)
I. LỜI TỰA
Bản chữ hán “Dương Trọng lịch thế gia phả”do các bậc tiền bối trong họ tộc thông thạo chữ Nho ghi chép trước năm 1945 là thời kỳ phong kiến thuộc Pháp, chưa lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Cửa Giáp Chi Trưởng có cụ Dương Trọng Xân (1882-1937) con thứ cụ Phó Tiệp (Phó Bảng) là thầy Xân dạy chữ Nho khởi xướng viết gia phả. Cụ Dương Trọng Khoan (thầy Mày) ở Cửa Giáp có biết chữ nho nhưng mất sớm, gửi con Dương Trọng Lạc cho ông ngoại Bang Hiên ăn học, thông hiểu chữ nho viết tiếp. Thời gian này ông Trọng Tỏng em ruột ông Trọng Khoan lên làm Tộc trưởng để phụng tự, quản lý ruộng đất hương hoả và lưu giữ bản Gia phả chữ nho đầu tiên. Năm 1950-1955, Trọng Tạo con ông Tỏng là phú nông cất giấu gia phả sợ bị đội “Cải cách Ruộng đất” trịch thu. Sau này con ông Tạo là ông Tâm Tuyền (1923 - 2004) đi bộ đội Nam Tiến từ năm 1946 về quê tìm thấy bản Gia phả chữ nho trên mái nhà do cha mình cất dấu và được lưu truyền lại cho đến nay tại Trưởng Tộc đại tôn
Sau năm 1945 sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà, nhà nước cho phổ cập các lớp "bình dân học vụ", chữ Việt trở thành Quốc ngữ chính thức của xã hội Việt Nam, chữ hán, chữ nôm bị bãi bỏ, trong họ không còn người thông thạo chữ Nho. Các Tộc trưởng đại tôn: Trọng Châu, Trọng Miêng và nay Dương Trọng Bắc tiếp tục biên soạn cập nhật, viết tay bản “Gia phả Dương tộc xã Thịnh Sơn” hoàn thành vào năm 2018
Năm 1973 ông Dương Trọng Trương kỹ sư Đại học bách khoa Hà Nội, công tác tại Bộ Xây dựng, cư ngụ tại tỉnh Đồng Nai, là thứ nam đời thứ 8 Thứ Chi Can Thuyên phiên dịch bản chữ hán sang quốc ngữ (chỉ chuyển âm chưa dịch nghĩa)
Năm 1995 ông Dương Quốc Bắc Tộc trưởng đời thứ 9 nhờ ông Dương Trọng Dật nguyên chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An là một người con cùng chung thê tổ nguyên quán ở Cao Hương, Thiện Bản. Nam Định nay là xã Liên Bảo huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định dịch Bản gia phả từ tiếng hán sang tiếng Việt dễ hiểu hơn bản do ông Trương dịch.
Vào dịp Nguyên Tiêu 2019 tôi- Dương Trọng Bảng kỹ sư kinh tế là chắt của Phái Chi Can Phiên đời thứ 7 được ông Dương Quốc Bắc cho photo lại bản gốc cuốn “Gia phả Dương tộc” do Trưởng tộc đại tôn biên soạn. Sau khi có các tư liệu trên tôi đã tiến hành cập nhật thông tin tộc họ từ Ngã tổ Dương Công Sùng đến đời nay lên trang Blogspot trên mạng internet có tên DƯƠNG TRỌNG LỊCH THẾ GIA PHẢ - 楊 仲 家譜日曆 địa chi website: https://duongtronggiapha.blogspot.com có đăng ký tên miền trên cổng thông tin của Bộ Thông tin truyền thông
Cách phân cấp và mã số hoá từng cá nhân trong gia phả: Gia phả chữ hán không hệ thống hóa thứ tự bằng những con số mà phân loại Chi nhánh họ theo hệ “Can Chi” để phân biệt Chi trưởng, Chi thứ như: Chi Giáp là Can Trường- Chi Trưởng, con Trưởng, Chi Ất là Can Sinh, con thứ hai, Chi Bính con thứ ba,.. Cho đến nay chưa có một điển chế thống nhất phân chia các cấp sinh hạ trong dòng tộc. Tổ tiên đã dựa nguyên lý “nước có nguồn, cây có gốc” mà chia huyết thống sinh hạ thành các cấp: Dòng họ, Chi họ, Phái họ, Cành, Nhánh, Chi nhánh là thống nhất từ một nguồn gốc do ông Thủy tổ họ sinh ra và là đầu mối của các thế hệ trong một dòng họ thống nhất.
Nguồn gốc thuỷ tổ 9 đời dòng họ Dương làng Quan Nội kể từ Cao tổ Dương Công Lâm về trước đến Ngã Tổ Dương Công Sùng tại Cao Hương, Nam Định đến nay cũng đã 19 đời. Đến đời Cao tổ Dương Công Lâm tại Làng Quan Nội có 3 nam 1 nữ chia thành 3 Chi họ và Tổ cô Dương Nhất Nương, đến đời thứ 4 Chi trưởng lại tách tiếp thành 4 Phái Chi, đến đời thứ 8 vào năm 2000 lại tách thêm 1 Phái Chi. Tất cả có 3 Chi và 5 Phái Chi. Gia phả chia làm 2 phần để dễ xem, dễ theo dõi. Phần I là Gia phả thuỷ tổ 9 đời và Phần II. Gia phả họ Dương xóm Thượng, làng Quan Nội từ Cao tổ Dương Công Lâm là đời thứ nhất đến đời con tộc trưởng Dương Quốc Bắc là đời thứ 10
Về địa danh làng Quan Nội: còn gọi là làng Kim Liên gồm xóm Thượng, xóm Nậy, xóm Chùa, xóm Mọi, xóm Đồng Lạc hình thành từ thế ký 16. Sau năm Minh Mệnh thứ 18 (1837), 3 làng Hội Tâm, Kim Liên (Quan Nội), Vạn Phúc (Bàu Vạn) thuộc tổng Vân Tụ, huyện Yên Thành, phủ Diễn Châu. Đầu thế kỷ XX, 3 làng trên thuộc tổng Yên Lăng, phủ Anh Sơn, sau năm 1963 lập thành xã Thịnh Sơn thuộc huyên Đô Lương. Kể từ 01/7/2025 bỏ cấp huyện xã Thịnh Sơn sáp nhập với 5 xã Bắc Sơn, Nam Sơn, Đà Sơn, Đặng Sơn, Lưu Sơn, Văn Sơn, Yên Sơn và thị trấn Đô Lương đổi tên thành xã Đô Lương thuộc tỉnh Nghệ An
Áp mã số, lập ma trận Di.j, cho từng cá thể trong gia tộc: sắp xếp theo bề vai từng đời và theo thế hệ cha con để cháu chắt hậu duệ đời sau thuận lợi tra cứu theo nguyên tắc: i là chỉ số đời từ 1; 2; 3… đến đời thứ i. Theo đó 1 là Cao tổ đời cha, 2 là đời con, 3 là đời cháu, 4 là đời chắt,…. j là chỉ số con trong từng đời từ 1,2,3,4,5….tương ứng 1 là con trưởng, 2 là con thứ hai, 3 là con thứ 3… đến con thứ j của từng người theo từng đời. Ví dụ: D1. Đời thứ nhấtCao tổ Dương Công Lâm và chính thất Trần Thị Hoàng, sinh ra các con đời thứ hai D2.j hình thành 3 Chi: D2.1: Dương Trọng Hướng là đời thứ 2, Trưởng nam). D2.2: Dương Trọng Thuyên là đời thứ 2, con thứ 2; D2.3: Dương Trọng Cầu là đời thứ 2, con thứ 3)
Về nội dung thông tin được ghi: chi tiết ở đời “cha” gồm có vợ và tất cả các con được sinh ra. Các con trai yểu tử, không có vợ, vô tự được ghi ở đời cha. Các con có vợ, có con hoặc không có con được ghi tiếp ở đời sau với tư cách là “cha”
Họ, tên, ngày tháng năm sinh mặc định theo dương lịch. Ngày tháng năm mất mặc định theo âm lịch, tuổi thọ tính theo tuổi âm. Nếu chỉ ghi mỗi năm (yyyy) được hiểu đó là năm sinh, nếu năm mất có ghi rõ, nếu ghi 2 năm nối với nhau bằng dấu - (yyyy - yyyy) đó là năm sinh và năm mất, có ngày (d) và tháng (m) thì ghi thêm (dd/mm/yyyy)
Nơi ở, nghề nghiệp, nơi công tác với các mốc thành tựu chính (nếu có). Các chức sắc làng xã của các bậc tiền bối trong chế độ Phong kiến rất khác hiện nay, nên có chú thích thêm bằng chữ“in nghiêng”
Họ tên vợ, năm sinh, nơi ở, nghề nghiệp và nơi công tác (nếu có).
Họ tên con trai: ngày tháng năm sinh, nếu mất sớm thì ghi là tảo mệnh, hoặc vô tự nếu không con trai kế hậu.
Họ tên con gái: chỉ ghi ở đời cha gồm họ tên năm sinh, mất, lấy chồng về đâu, tên chồng, con, quê quán, nghề nghiệp và các thông tin khác nếu có
II. THUỶ TỔ DƯƠNG TỘC LÀNG QUAN NỘI
Nguyên quán: ngã tổ họ Dương ở tỉnh Nam Định, phủ Nghĩa Hưng, huyện Thiện Bản, xã Cao Hương, thôn Giáp.
Quê quán: Cao tổ đời thứ 4 Dương Viết Tiêu, tự Thiện Tâm vào khoảng năm 1700 di cư từ Nam Định vào thừa tuyên Nghệ An, phủ Anh Đô, huyện Nam Đường, xã Yên Lăng, xóm Quan Nội. Cao tổ Đời thứ 3 Dương Công Minh chuyển tới xứ Lạng Điền, cùng huyện Nam Đường (vùng ven Sông Lam có thể là xã Lạng Sơn, huyện Anh Sơn). Năm Nhâm Dần (1782) lũ lụt lớn mất hết nhà cữa lại quay về quê cũ làng Quan Nội, xóm Thượng Lý, xã Yên Lăng, huyện Đông Thành, phủ Anh Đô. Con cháu tụ hội đông đúc phát triển ở đất đó trở thành bản quán của Tổ.
Ngã tổ đời thứ 9 (tính từ cao tổ Dương Công Lâm trở về trước): là Dương Công Sùng, tự Ngọc Xân, thuỵ Văn Ý Dương tướng công thời tiền triều Mạc Đăng Dung (1483-1541). Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ khoa Ất Mùi niên hiệu Đại Chính 6 (1535) đời Mạc Đăng Doanh. Làm quan đến chức Thừa tuyên xứ, Thừa chính sứ ty (布政使, Administration Commissioner), Hình bộ tả thị lang, (侍郎, Vice Minister tuơng đương chức Thứ trưởng Bộ tư pháp), tước Diên Hà bá. Mộ táng tại thôn Ngọc Cao Hương, huyện Thiện Bản, tỉnh Nam Định..
Thượng tổ đời thứ 8: Thiên nam đạo, Hoàng tín đại phu Dương tướng công, tự Văn Xán tiên sinh, chiêu văn quán nho sinh. Tổ bà nhụ nhân thần vị. Đại phú thanh hình, kiến ty quan kiêm nho sinh học sỹ, người bản tộc Cao Hương tên là Cố, ở đạo Thiên Nam cũ, có đền thờ ở Cao Huơng.
Cao tổ đời thứ 7, thứ 6: Thời Tiền Lê triều Quốc Tử Giám, giám sinh Dương quý công, tên chữ Trọng Miễn tiên sinh, cao tổ bà nhu nhân thần vị. Lê triều Thái Hoà Quốc Tử Giám, giám sinh Dương quý công tên chữ Cẩn Định tiên sinh, cao tổ bà nhu nhân thần vị. Hai Tiên sinh (Trọng Miễn và Cẩn Định) qua bao đời xa xưa không rõ sự tích. Đến triều Tự Đức vào năm Đinh Sửu (1877) bản thôn lập cầu khoa đàn, nhờ tiên đồng chỉ phán triệu hồn trợ táng, chỉ rõ mộ hai tiên sinh sang táng tại ruộng mạ trên gò cao ruộng mạ Quán xứ,.
Cao tổ đời thứ 5: Dương Nhất Lang, giỗ ngày 11/2. Cao Tổ tỷ Nguyễn Thị Giám (Lãm) giỗ ngày 5/1 mộ cùng táng tại xã Cao Hương,
Cao tổ đời thứ 4: Dương Viết Tiêu, tự Thiện Tâm. Giổ ngày 5/2. Tổ bà chính thất Đậu Thị Trà nhu nhân thần vị, mộ táng tại xóm Yên Lại, địa phần vườn Đông, giỗ ngày 16/1.
Cao tổ đời thứ 3: Dương Công Bình tự Chính Phúc, mộ táng tại xóm Quan Nội, Đồng Lại xứ. Giổ ngày 19/2. Tổ bà Phùng Thị Yên hiệu Từ Diệu nhu nhân thần vị, Mộ táng tại Quan Nội thôn, Quần Lại xứ. Giỗ ngày 5/11. Cao tổ vốn ở xã Cao Hương, có 4 gái và 1 trai:. Nhất nam Duơng Công Minh; 4 nữ không rõ tung tích tên tuổi.
Cao tổ đời thứ 2: Dương Công Minh, tự Lệnh Lang, Dương quý công là người hiền lành, giỏi nghề buôn bán. Mộ táng thôn Bàu Vạn, địa phận quần tri xứ thôn Quế thu điền, giổ ngày 4/3. Tổ bà chính thất Trần Thị Đạm hiệu Từ Tiên Nhu Nhân mộ táng xứ Đồng Kiện ruộng mạ của ông Thái Phú Can, giổ ngày 16/4. Cao tổ vốn sinh tại xóm Quan Nội mang cả mộ cha mẹ cùng vợ con di cư tới xã Vạn Lãng Điền, (tổng Lãng Điền, huyện Nam Đường, phủ Anh Đô) tạo lập gia đường thành tiểu phú, sinh được 4 trai 3 gái, đến năm Nhâm Dần (1782) lũ lụt lớn, mất hết nhà cửa lại quay về huyện Đông Thành, xã Yên Lăng, làng Quan Nội, xóm Thượng Lý, thiết lập đất hương hoả thành nhà buôn lớn. Mộ táng tại Bàu Vạn Thôn. Giỗ ngày 4/3. Sinh đắc các con:
+ Trưởng nam Dương Công Hưng, tự Trọng Thông, sinh ở Lãng Điền, không rõ tung tích phần mộ;.
+ Thứ nam DƯƠNG CÔNG LÂM, tự CÔNG CƠ tức Cao tổ họ Dương Thịnh Sơn (được mã số là D.1 dưới đây);.
+ Thứ thứ nam: Dương Công Thuật (Vệ) mất sớm, giỗ ngày 21/1, mộ táng ruộng mạ đông xóm Thượng.
+ Con trai út: Dương Công Lý, mất sớm, giổ ngày 16/6, mộ táng tại đông hậu xóm Thượng.
+ Trưởng nữ: Dương Thị Kính, lấy chồng, con cháu Thài Doãn Thực thờ cúng; Thứ nữ: Dương Thị Tín không rõ tung tích; Con gái út Dương Thị Luật mất sớm, giỗ ngày 22/7 mộ táng tại ruộng mạ xóm Thượng.
III. DƯƠNG TỘC TỪ CAO TỔ DƯƠNG CÔNG LÂM TRỞ VỀ SAU
Đời thứ 1:
D1. Cao tổ khảo, thứ nam DƯƠNG CÔNG LÂM (揚 彸 林), tự CÔNG CƠ (彸 基) là CAO TỔ HỌ DƯƠNG THÔN QUAN NỘI, LÀNG KIM LIÊN nay là xã THỊNH SƠN. Sinh năm Nhâm Thìn (1772), Giỏi về nghề ghi chép sổ sách, giữ chức Tri bạ (địa chính). Giỗ ngày 13/2, mộ táng tại Yên Lăng, đồng Nhà Thánh. Cao tổ tỷ Trần Thị Hằng, huý Thị Bằng, hiệu Từ thuận nhụ nhân thần vị. Giỗ ngày 18/1. Mộ táng tại Làng Quan Nội, Đông xóm Thượng, Quyết Điền xứ tọa Tý hướng Ngọ. Thân sinh cụ Công Cơ vốn ở Lãng Điền, có một thời gian xa quê lấy vợ rồi quay về quê cũ của tổ ở xã Yên Lăng, làng Quán Nội, xóm Thượng. Cụ ông bị bệnh mất sớm, cụ bà một mình nuôi con, tạo được ruộng ao vườn chia làm 4 phần có di chúc cho 4 con (3 nam 1 nữ):
D2.1.1 Trưởng nam Dương Trọng Hướng (揚 仲 珦), huý Trọng Dong (仲 瑢), tự là Trọng Dung sinh năm Giáp Tý 1804;
D2.1.2 Thứ nam Dương Trọng Thuyên (揚 仲 銓), huý Trọng Toàn, tự Trọng Uổng, tự Quang Cảnh phu quân, sinh năm Đinh Mão (1807):
D2.1.3 Nam thứ ba Dương Trọng Cầu (揚 仲 球)phu quân, húy Trọng Thứ (仲 庶) sinh năm Kỷ Tỵ (1809)
D2.1.4 Nhất nữ:Dương Thị Đẩu (揚 氏 斗) là em gái Dương Trọng Hướng, lấy chồng Lê Nhâm nhưng không có con nên phần ruộng của bà Đẩu hoàn lại cho 3 chi. Giỗ ngày 13/8. Lăng Tổ bà Dương Nhất Nương hiệu Anh Linh Thần vị ở hậu xóm Thượng được con cháu hậu duệ tôn tạo nhiều lần, đặc biệt năm 2024-2025 có sự đóng góp lớn của Trọng Tư, Trọng Thiết Chi Can Phiên và ông Dương Quốc Huy là người con họ Dương quê ở Anh Sơn nâng cấp khang trang, có hồ sen, đài phun nước, tưởng rào, sân, đường nội bộ và cổng bằng đá tự nhiên

Cổng vào nhà thờ đại tôn lắp dựng năm Canh Tý 2011

Lăng tổ cô Dương Nhất Nương tại Hậu Xóm Thượng
Đời thứ 2
Trưởng tộc DƯƠNG TRỌNG HƯỚNG
D2.1 Dương Trọng Hướng: là là con trai trưởng của ông Cụ Dương Công Cơ, là Trưởng tộc Đại tôn đời thứ 2, được thừa hưởng cơ nghiệp của cha ông trở thành tiểu phú: ruộng 2 mẫu, vườn 3 sào, là người khai sáng xây dựng từ đường của Họ Dương Thôn Thượng, được con cháu hoàn thành vào năm 1880 (thời Vua Tự Đức hoàng đế 1848- 1883). Bức hoành phi treo ở nhà thờ có ghi:“Tự Đức Canh Thìn Thu Lý tác; Trọng Thu Nguyệt Thượng Hoàn Lạc thành”, có 3 trai và 7 gái:
D3.1.1 Dương Trọng Triệt (Đỉnh), mất 1828- là Can Trường, con bà cảD3.1.2 Dương Trọng Hanh - là Can Sinh, Cửa Giáp con bà hai,
D3.1.3 Dương Trọng Đình: con bà cả, mất sớm, vô tự;
D3.1.4 Dương Thị Thanh, chồng Thái Phú Đức;
D3.1.5 Dương Thị Đang, chồng Nguyễn Tụng;
D3.1.6 Dương Thị Hạnh, chồng Nguyễn Quốc Thử;
D3.1.7 Dương Thị Bằng, chồng Nguyễn Thái Đạt;
D3.1.8 Dương Thị Đài, chồng Thái Khắc Diện;
D3.1.9 Dương Thị Huỳnh, chồng Thái Khắc Cầu;
D3.1.10 Dương Thị Thanh, chồng Nguyễn Xuân Nậy

Bức hoành phi Nhà thờ đại tôn đã hơn 170 năm
IV. HÌNH THÀNH CÁC CHI TỘC HỌ DƯƠNG
Đời thứ ba:
Do con cháu chắt Cao tổ phát triển nhanh, ban đầu lập thành 3 chi: Chi Trưởng Dương Hưởng, Thứ Chi Can Thuyên- gọi là Chi Đông Tùng và Thứ thứ Chi Can Cầu- gọi là Tri Mỹ Chi để thờ tự:
Nhà thờ Thư thứ chi Can Cầu
1. CHI TRƯỞNG – TRƯỞNG TỘC DƯƠNG HƯỚNG
1.1 Hai con trai kế hậu của Trưởng tộc Dương Hướng
D3.1.1 TRƯỞNG NAM DƯƠNG TRỌNG ĐỈNH-(揚 仲 椗), (Mậu Tý 1778 – 1828), thụy phác trực tướng công là Trưởng tộc cửa trưởng, giữ chức tri bạ (đia chính) giỗ ngày 14/10, mộ táng thôn Bàu Vạn vệ tám xứ, huyệt toạ Mùi, hướng Sửu, phân kim Tân Mùi Tân Sửu. Có ba vợ: Vợ cả Lê Thị Kế người cùng thôn, giỗ ngày 10/2, sinh 02 nam 03 nữ (giỗ 10/2) mộ táng xứ Đồng Kiện thổ phụ, toạ Tỵ hướng Hợi, phân kim Đinh Tỵ Đinh Hợi. Vợ hai Trần Thị Diên (Duyên) sinh 01 nữ người thôn Chấp Trung, giỗ ngày 28/8, mộ táng Đồng Bổng xứ, ruộng ông Dương Trọng Chương, thổ phụ phía Tây Bắc, toạ Tỵ hướng Ngọ, phân kim Canh Tỵ, Canh Ngọ. Vợ ba Trần Thị Sâm (còn gọi là Tám) người thôn Chấp Trung, giỗ ngày 16/6 mộ táng Thôn Bàu Vạn, Chấp Quả xứ, ruộng mạ ông Dương Trọng Thiều, toạ ngọ, hướng tý, phân kim Canh Ngọ, Canh Tý, sinh 3 nam 2 nữ: Tất cả có 5 nam 4 nữ:
D4.11.1 Dương Trọng Quỳnh (揚 仲 琼), cố Quyên, con bà cả;
D4.11.2 Dương Trọng Thư (揚 仲 書),tự Trọng Tâm,cố Vân, con bà hai;
D4.11.3 Dương Trọng Phiên (揚 仲 幡), còn gọi là cố Xiển, con bà ba;
D4.11.4 Dương Trọng Khuê (揚 仲 刲)- cố Hoàn, con bà ba;
D4.11.5 Dương Trong Phạn (揚 仲 梵)- mất sớm, vô tD3.1.2ự, con bà Sâm;
D 1.6 Dương bị Châu, con bà hai lấy ông Thái Khắc Luỹ người cùng làng, tái giá với ông Nguyễn Xuân Đạo làng Vạn An;
D4.11.7 Dương Thị Lâm chồng Thái Khắc Khẩn người Làng Hội Tâm sinh có 3 trai 3 gái;
D4.11.8 Thứ nữ Dương Thị Thời chồng Thái Khắc Biểu, người cùng thôn, có 2 trai 1 gái
D3.1.2 THỨ NAM DƯƠNG TRỌNG HANH (揚 仲 亨),
tự Trọng Kỳ, còn có tên Trọng Quách con bà hai, được học hành chu đáo, giữ chức Phó Lý (không do quan trên bổ nhiệm do dân bầu, tương đương với cấp Phó chủ tịch xã), mộ táng tại Đồng Quan. Cố bà chính thất Thái Thị Nhàn ở xóm Hội Tâm sinh nhất nam:
D4.12.1 Dương Trọng Hoán (cố Phó Tiệp)
2. THỨ CHI CAN THUYÊN- CHI ĐÔNG TÙNG
2.1 Hai con trai kế hậu Thứ nam Dương Trọng Thuyên (揚 仲 銓) (D2.2)
D3.2.4 DƯƠNG TRỌNG HOE, giổ ngày 19/9, mộ táng thôn Bàu Vạn (Yên Thế), thổ phụ vệ Bụt xứ. Vợ là Nguyễn Thị Điều, giỗ ngày 16/7, mộ táng tại ruộng mạ xóm Thượng. Sinh 1 nam, 2 nữ:
D4.24.1 Trưởng nữ Dương Thị Bát lấy ông Thái Văn Khuê người cùng thôn, mộ táng ở Bào Quan xứ, giỗ ngày 8/12.
D4.24.2 Dương Thị Chu lấy ông Nguyễn Thái L cùng thôn, Nguyễn Thái Tắc thờ cúng;
D4.24.3 Nhất nam: Dương Trọng Trung.
D3.2.5 DƯƠNG TRỌNG HOÀ, tự Trọng Miễn, giổ ngày 16/10, mộ táng tại ruộng mạ đồng Nắc (phía nam cầu sông Đào). Vợ Thái Thị Cử người cùng thôn. Giổ ngày 26/8. Mộ táng ở thổ phụ đồng Nắc xứ, sinh 5 trai, 2 gái:
D4.25.1 Trưởng nam Dương Trọng Dư (cố Mậu);
D4.25.2 Dương Trọng Cúc (cố Đuyến);
D4.25.3 Dương Trọng Tiến ( cố Túc), vô tự;
D4.25.4 Dương Trọng Uyên, tự trọng Duân;
D4.25.5 Dương Trọng Khai tự Trọng Vồng
3. THỨ THỨ CHI CAN CẦU - TRI MỸ CHI
3.1 Nhất nam kế hậu của nam ba: Dương Trọng Cầu D2.3 (揚 仲 俅):
D3.3.3 DƯƠNG TRỌNG NĂNG, Trưởng Chi tộc can Cầu- Tri Mỹ Chi, giổ ngày 20/7, mộ táng tại Chùa Lội, xã Thịnh Sơn, sinh 1 trai 6 gái:
D4.33.1 Dương Thị Dục;
D4.33.2 Dương Thị Thị lấy chồng người cùng làng;
D4.Can Dương lấy chồng về xã Xuân Sơn;
D4.33.4 Dương Thị Khang lấy ông Thái Văn Thái;
D4.33.5 Dương Trọng Kiện;
D4.33.6 Dương Thị Hoà, chồng Nguyến Đình Thương;
D4.32.7 Dương Thị Thuỳ, chồng Thái Doãn Viên;
(Kế từ đây Thứ Chi Can Thuyên và Thứ thứ Chi Can Cầu sẽ được ghi tiếp trong Gia phả của Chi Đông Tùng và Tri Mỹ Chi)
Đời Thứ 4. Thứ thứ Chi Can Cầu- Mỹ Tri Chi
1. Nhất nam của Dương Trọng Năng D3.3.3:
D4.33.5 DƯƠNG TRỌNG KIỆN (giỗ 13/11): là Tộc Trưởng chi Tri Mỹ đời thứ 4, Chính thất Thái Thị Đình, á thất Thái Thị Duệ, có 3 nam 1 nữ :
D5.335.1 Dương Thị Liễu (bà Cửu Liệu), chồng Nguyễn Cảnh ở xóm Mọi; nhà dàu có, quyền thế, Mẹ ông Tuần Thuộc, ông Tráng là cháu;
D5.335.2 Dương Thị Đượi (bà Đồ Đượi), lấy chồng làm Lý Trưởng làng Yên Lại, Hòa Sơn;
D5.335.3 Dương Thị Nhiếp (bà Cửu Nhiếp); lấy chồng vê xóm Chùa, là mẹ cố Xin Nhàn; ông Chương Bửu, bà của bà Thanh Miêng
D5.335.4 Dương Thị Hiệu (bà Cửu Hiệu), lấy chồng về xóm Mọi, nhà dàu có là mẹ cố Sâm Long;
D5.335.5 Dương Trọng Thiện;
D5.335.6 Dương Trong Ngoãn
Đời Thứ 5:
1. Con trai của cụ Dương Trọng Kiện D4.33.5:
D5.335.5 DƯƠNG TRỌNG THIỆN (……): tộc trưởng Thứ thứ Chi, đời thứ năm. Nhà dàu có. Vợ Chính thất Thái Thị Đình, vợ á thất Thái Thị Duệ. Có 3 con trai, 1 gái:
D6.3355.1 Dương Trọng Uyển (vô tự);
D6.3355.2 Dương Trọng Xuyến;
D6.3555.3 Dương Trọng Tiến: vô tự
D6.3355.3 Dương Thị Thuyến, chồng Thái Khắc Nhiên (mẹ ông Nguyên)
D5.335.6 Dương Trọng Ngoãn: vợ Thái Thị Thân, có 2 con bị chết đói trong nạn đói năm 1945:
D6.3356.1 Dương Trọng Mãn chết đói năm 1945
D6.3356.2 Dương Trọng Nhiên, chết đói năm 1945
Đời thứ 6: THỨ THỨ CHI CAN CẦU- TRI MỸ CHI
1. Các con ông Dương Trọng Thiện D5.335.5:
D6.3355.2 DƯƠNG TRỌNG XUYẾN (….): chi trưởng đời thứ 6. Nhà nghèo, đi làm thuê. Vợ Thái Thị Lực quê Thanh Chương cũng là người làm thuê. Có 2 con:
D7.33552.1 Dương Trọng Lịch;
D7.33552.2 Dương Thị Hợi (1935), nhà nghèo, bố mẹ phải bán về Yên Thành làm con nuôi. Năm 1953 về sống cùng mẹ là bà Lực. Sau lấy chồng về Đà Nẵng là bộ đội miền nam tập kết, Công nhân nông trường, cư trú tỉnh Quảng Nam
Đời thứ 7: Thứ thứ chi Can Cầu- Tri Mỹ Chi:
1. Các con ông Dương Trọng Xuyến D6.3355.2:
1. Các con ông Dương Trọng Xuyến D6.3355.2:
D7.33552.1 DƯƠNG TRỌNG LỊCH (1932-2015): bộ đội Miền Nam, sau hiệp định Giơnevơ 1954, tập kết ra bắc vĩ tuyên 17, học nghề Y sỹ, công tác tại nông trường ở Hà Tĩnh. Vợ Trần Thị Cam, quê Nam Kim, Nam Đàn rồi đưa về quê ở trong căn nhà nhỏ cạnh nhà Bà Thơn. Năm 1976 chuyển ra Nông trường Yên Định Thanh Hóa. Năm 1983 về quê không còn nhà vì HTX nông nghiệp đã chuyển giao cho nhà cho bà Thơn. Ông bà phải quay về Yên Định, Thanh Hóa. Năm 2015 ông Lịch qua đời bà Trần Thị Cam được các con đưa ra Hà Nội. Ông bà có 05 con:
D8.335521.1 Dương Thị Khanh;
D8.335521.2 Dương Trọng Công Tưởng;
D8.335521.3 Dương Trọng Tiên Niệm;
D8.335521.4 Dương Trọng Công Lý
Đời thứ 8. Thứ thứ chi Can Cầu- Tri Mỹ Chi:
1. Các con ông Dương Trọng Lịch D7.33552.1:
1. Các con ông Dương Trọng Lịch D7.33552.1:
D8.335521.2 DƯƠNG TRỌNG CÔNG TƯỞNG (….): tốt nghiệp Đại học xây dựng Hà Nội. Vợ Thân Thị Thanh Hằng. Có các con:
D9.3355212.1 Dương Minh Việt Đằng (2000): du học tại Hoa Kỳ (USA):
D8.335521.3 DƯƠNG TRỌNG TIÊN NIỆM (… ): Đại học kinh té quốc dân Hà Nội. Vợ Nguyễn Thị Hương, bác sỹ, quê Bắc Giang, có các con::
D9.3355213.1 Dương Trọng Đức Dĩnh (1997):
D9.3355213.2 Dương Bích Trà:
D8.335521.4 DƯƠNG TRỌNG CÔNG LÝ (…): Đại học thương mại Hà Nội. Vợ Vũ Thu Hương, quê Đà Nẵng. Sau khi vợ mất, gia đình định cư tại USA. Có các con:
D9.3355214.1 Dương Vũ Hà An (2002):
D9.3355214.2 Dương Vũ (2008):
Đời thứ 9. Thứ thứ chi Can Cầu- Tri Mỹ Chi:
1. Các con kế hậu ông Dương Trọng Công Tưởng D8.335521.2:
D9.3355212.1 DƯƠNG MINH VIỆT ĐẰNG (….):
2. Các con kế hậu ông Dương Trọng Tiên Niệm D8.335521.3:
D9.3355213 DƯƠNG TRỌNG ĐỨC VĨNH (….):
3. Các con kế hậu Dương Trọng Công Lý D8.335521:
D9.3355214.1 DƯƠNG (…..):
D9.3355214.2 DƯƠNG VŨ (2008)::
Một điều cần ghi lại: Cụ Dương Trọng Năng là con út của Cao tổ Dương Công Cơ, Thủy tổ Họ Dương Trọng ở Thịnh Sơn. Lúc sinh thời cụ Năng giàu có, nhưng con trai Dương Trọng Thiện kế nghiệp bị phá sản. Ông Dương Trọng Ngoạn là em trai ông Thiện có 2 con trai: Trọng Mãn, Trọng Nhiên bị chết đói năm 1945. Trong khi bốn Cô Liệu, cô Đượi, cô Hiệu và cô Nhiếp là chị ruột của cha, đều làm dâu nhà dàu, quyền quý mà không giúp được 2 cháu khỏi chết đói, rất đau xót. Thứ thứ Chi Can Cầu nghèo khó, gian nan nhất, có 2 người cháu bị chết đói năm 1945, trong Chi họ có nhiều người vô tự hoặc hiếm muộn. Ông Dương Trọng Lịch và bà Trần Thị Tam là đời thứ 7. Thời còn trẻ phải bôn ba xa quê, khi lập gia đình cũng ở nơi đất khách quê người, phải lăn lộn, gian khổ nuôi con, Năm 2005 khi ông Lịch qua đời được các con lo cho nơi an giấc ngàn thu rất chu toàn. Vợ ông Lịch được các con đưa ra Hà Nội chăm sóc nuôi dường tuổi già. Các con của ông Lịch cũng trải qua một thời gian nan, sống dưới gầm cầu Long Biên để kiếm sống, học tập và lập nghiệp nay cũng thành đạt, các con ông đếu tốt nghiệp Đại học chính quy Hà Nội, có 1 con du học ở Mỹ và 1 con định cư tại Hoa Kỳ. Nay các con cháu đều trưởng thành, cha mẹ có thể tự hào cũng là tấm gương cho con cháu họ Dương vượt khó, vượt khổ để lập nghiệp.
Ghi chú:
1. Các chức danh của các bậc tiên tổ thời Phong kiến thuộc Pháp trước năm 1945 ghi trong gia phả:
- Về chức danh quản lý làng xã: Từ thời nhà Nguyễn (1824- 1883) sau khi Vua Gia Long thống nhất đất nước chính quyền trung ương chỉ quản cấp phủ và huyện, trao quyền cai tổng, phó tổng do các làng bầu. Năm 1904, thực dân Pháp tổ chức “Ban Hội Tề” (còn gọi là Hội đồng làng) có các chức vụ: Hương cả, Hương chủ, Hương sư, Hương trưởng, Hương chánh, Hương giáo, Hương quản, Hương bộ, Hương thân, Xã trưởng, Hương hào…Ở Trung Kỳ, năm 1942, Triều đình Huế thành lập Hội đồng Kỳ hào, cơ quan chấp hành là Lý trưởng, Phó lý, Ngũ hương. Bộ máy quản lý làng, xã: Chánh hội, Phó hội, Lý trưởng, Khán thủ, Trương tuần, Phó lý, chưởng bạ, trị bạ, hộ lại; thư ký, thủ quỹ do dân bầu, không do quan trên bổ nhiệm;
- Phường: là tổ chức phường nghề như Phường vải, Phường nề, phường mộc,
- Hội tư văn: là môt tổ chức xã hội của kẻ sỹ dân quê học chữ nho, có các chức danh Hội trưởng, Điển văn, Tả văn do hội bầu chọn
- Hội hương binh: là hội các cựu chiến binh làng, xã đứng đầu là Hội trưởng
- Giáp: Là hội dựa trên quan hệ tuổi tác, tiến thân bằng tuổi tác, gọi là “Xí tác” theo nguyên tắc “trọng xí” được năng dần theo tuổi tác, như già làng ở các dân tộc miền núi
2. Tham khảo các đia danh thời Pháp thuộc trong Gia phả bản chữ Hán
Theo sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế ký XIX, danh xưng Đô Lương có từ năm 1831. Đô Lương là một Tổng thuộc huyện Nam Đường, phủ Anh Đô. Phủ Anh Đô gồm có 2 huyện: Nam Đường và Hưng Nguyên. Huyện Nam Đường: gồm có 8 tổng, 90 xã, thôn, phường, trại, sách, giáp, vạn, đó là:
- Tổng Đô Lương gồm 24 xã, thôn, giáp:
+ Đô Lương (xã): thôn Cẩm Hoa Thượng, thôn Cẩm Hoa Đông, giáp Nghiêm Thắng, giáp Duyên Quang, thôn Đông Trung, thôn Hoa Viên, thôn Phúc Thị.
+ Đại Tuyền (xã): thôn Phúc Thọ, Đông Am, giáp Trung An, thôn An Thành
+ Bạch Đường: thôn Nhân Trung, thôn Phúc Tuyền, thôn Phúc An, thôn Nhân Bồi, thôn Miếu Đường.
+ Diêm Trường: thôn An Tứ, Bỉnh Trung, Chấp Trung
+ Phường Thiên Lý, thôn Vĩnh Trung, phường Hồng Hoa, phường Duy Thanh.
- Tổng Lãng Điền: Xã Lãng Điền, Mặc Điền, Tào Nguyên, thôn Vạn Hộ, Cấm An, An Lương, vạn Lãng Điền, Mặc Điền, sách Tào Giang.
- Tổng Thuần Trung: gồm các thôn: Thuần Trung, Tràng Bộc, Yết Nghi, Phật Kệ, Sơn La.
- Tổng Bạch Hà: Xã Bạch Hà, Nhân Luật, Lưu Sơn, Thanh Thủy, Đào Ngoã.
- Tổng Non Liễu: 20 xã, thôn, giáp: Non Liễu, Yên Lạc, Thanh Tuyền, Non Hồ, Vân Đồn, Chung Giáp, Thượng Hồng (thôn).
- Tổng Lâm Thịnh; - Tổng Đại Đồng; - Tổng Hoa Lâm
Người Biên tập bổ sung Dương Trọng Bảng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét