Nguồn gốc thuỷ tổ họ Dương Trọng làng Quan Nội do các bậc tiền bối trong họ tộc thông thạo chữ Nho ghi chép trước năm 1945 trong thời kỳ phong kiến thuộc Pháp. Cuốn “Dương Trọng lịch thế gia phả” do cụ Dương Trọng Ánh (Xân) tự Trọng Học, còn gọi là thấy Hân (1882-1937), đời thứ 5- con thứ cụ Trọng Hoán (Phó Tiệp - Phó Bảng- Phó lý trưởng, Tộc Trưởng phái chi Can Sinh Dương Hanh) khởi xướng viết. Sau đó cụ Dương Trọng Hoan đời thứ 6 (còn gọi là thầy Mày- cố Khoan- là con đầu ông Dương Trọng Châu) được ông ngoại Bang Hiên nuôi ăn học, thông hiểu chữ nho viết tiếp
Trong thời gian ông Trọng Tỏng em ruột ông Trọng Khoan lên làm Tộc trưởng Chi trưởng Dương Hướng để phụng tự, quản lý ruộng đất hương hoả và lưu giữ bản Gia phả chữ nho đầu tiên

Mục lục
Năm 1950-1955, Trọng Tạo con ông Trọng Tỏng là phú nông cất giấu Gia phả sợ bị đội “Cải cách Ruộng đất” trịch thu. Con ông Tạo là ông Tâm Tuyền (1923 - 2004) đi bộ đội Nam Tiến từ năm 1946 về quê tìm thấy bản Gia phả chữ nho trên mái nhà do cha mình cất dấu và được lưu truyền lại cho đến nay tại Trưởng Tộc đại tôn
Năm 1973 ông Dương Trọng Trương kỹ sư Đại học bách khoa Hà Nội, công tác tại Bộ Xây dựng, cư ngụ tại tỉnh Đồng Nai, là thứ nam đời thứ 8 Thứ Chi Can Thuyên phiên dịch bản chữ hán sang quốc ngữ (chỉ chuyển âm chưa dịch nghĩa).
Năm 1995 ông Dương Quốc Bắc Tộc trưởng đời thứ 9 nhờ ông Dương Trọng Dật nguyên chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An là một người con cùng chung thê tổ nguyên quán ở Cao Hương, Thiện Bản. Nam Định nay là xã Liên Bảo huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định dịch đầy đủ Bản gia phả từ tiếng Hán sang tiếng Việt
Vào dịp Nguyên Tiêu 2019 tôi- Dương Trọng Bảng kỹ sư kinh tế là chắt của Can Phiên đời thứ 7 được ông Dương Quốc Bắc cho photo bản gốc cuốn “Gia phả Dương tộc” do Trưởng tộc đại tôn biên soạn
Sau khi tra cứu, tham khảo một số gia phả của dòng họ có liên quan ở Nam Định và thông tin sử sách có liên quan, tôi đã biên soạn lại cụ thể, dễ hiểu hơn về thuỷ tổ họ Dương 9 đời kể từ Cao tổ Dương Công Lâm trở về trước như sau:
1. Nguyên quán và bản quán:
Nguyên quán: ngã tổ họ Dương ở tỉnh Nam Định, phủ Nghĩa Hưng, huyện Thiện Bản, xã Cao Hương, thôn Giáp
Quê quán: Dương Viết Tiêu là Cao tổ đời thứ 4, tự Thiện Tâm vào khoảng năm 1700 di cư từ Nam Định vào thừa tuyên Nghệ An, phủ Anh Đô, huyện Nam Đường, xã Yên Lăng, xóm Quan Nội
Bản quán: Dương Công Minh Cao tổ đời thứ 3 di chuyển tới xứ Lạng Điền, cùng huyện Nam Đường (vùng ven Sông Lam có thể là xã Lạng Sơn, huyện Anh Sơn). Năm Nhâm Dần (1782) lũ lụt lớn mất hết nhà cữa lại quay về quê cũ làng Quan Nội, xóm Thượng Lý, xã Yên Lăng, huyện Đông Thành, phủ Anh Đô. Con cháu tụ hội đông đúc phát triển ở đất đó trở thành bản quán của Tổ
2. Thuỷ tổ chín đời tính từ cao tổ Dương Công Lâm
2.1. Ngã tổ đời thứ 9:
Dương Công Sùng, tự Ngọc Xân, thuỵ Văn Ý: Dương tướng công thời tiền triều Mạc Đăng Dung (1483-1541). Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ khoa Ất Mùi niên hiệu Đại Chính 6 (1535) đời Mạc Đăng Doanh. Làm quan đến chức Thừa tuyên xứ, Thừa chính sứ ty (布政使, Administration Commissioner), Hình bộ tả thị lang, (侍郎, Vice Minister tuơng đương chức Thứ trưởng Bộ tư pháp), tước Diên Hà bá. Mộ táng tại thôn Ngọc Cao Hương, huyện Thiện Bản, tỉnh Nam Định
2.2. Thượng tổ đời thứ 8:
Thiên nam đạo, Hoàng tín đại phu Dương tướng công, tự Văn Xán tiên sinh: chiêu văn quán nho sinh. Tổ bà nhụ nhân thần vị. Đại phú thanh hình, kiến ty quan kiêm nho sinh học sỹ, người bản tộc Cao Hương tên là Cố, ở đạo Thiên Nam cũ, có đền thờ ở Cao Huơng
2.3. Cao tổ đời thứ 6 và 7:
Thời Tiền Lê triều Quốc Tử Giám: giám sinh Dương quý công, tên chữ Trọng Miễn tiên sinh, cao tổ bà nhu nhân thần vị. Lê triều Thái Hoà Quốc Tử Giám, giám sinh Dương quý công tên chữ Cẩn Định tiên sinh, cao tổ bà nhu nhân thần vị. Hai Tiên sinh (Trọng Miễn và Cẩn Định) qua bao đời xa xưa không rõ sự tích. Đến triều Tự Đức vào năm Đinh Sửu (1877) bản thôn lập cầu khoa đàn, nhờ tiên đồng chỉ phán triệu hồn trợ táng, chỉ rõ mộ hai tiên sinh sang táng tại ruộng mạ trên gò cao ruộng mạ Quán xứ
2.4. Cao tổ đời thứ 5:
Dương Nhất Lang giỗ ngày 11/2. Cao Tổ tỷ Nguyễn Thị Giám (Lãm) giỗ ngày 5/1 mộ cùng táng tại xã Cao Hương
2.5. Cao tổ đời thứ 4:
Dương Viết Tiêu, tự Thiện Tâm Giổ ngày 5/2. Tổ bà chính thất Đậu Thị Trà nhu nhân thần vị, mộ táng tại xóm Yên Lại, địa phần vườn Đông, giỗ ngày 16/1
2.6. Cao tổ đời thứ 3:
Dương Công Bình tự Chính Phúc: mộ táng tại xóm Quan Nội, Đồng Lại xứ. Giổ ngày 19/2. Tổ bà Phùng Thị Yên hiệu Từ Diệu nhu nhân thần vị, Mộ táng tại Quan Nội thôn, Quần Lại xứ. Giỗ ngày 5/11. Cao tổ vốn ở xã Cao Hương, có 4 gái và 1 trai:
- Nhất nam Duơng Công Minh
- Bốn nữ không rõ tung tích, tên tuổi
2.7. Cao tổ đời thứ 2:
Dương Công Minh, tự Lệnh Lang: Dương quý công giỏi nghề buôn bán. Mộ táng thôn Bàu Vạn, địa phận quần tri xứ thôn Quế thu điền, giổ ngày 4/3. Tổ bà chính thất Trần Thị Đạm hiệu Từ Tiên Nhu Nhân mộ táng xứ Đồng Kiện ruộng mạ của ông Thái Phú Can, giổ ngày 16/4. Cao tổ vốn sinh tại xóm Quan Nội mang cả mộ cha mẹ cùng vợ con di cư tới xã Vạn Lãng Điền, (tổng Lãng Điền, huyện Nam Đường, phủ Anh Đô) tạo lập gia đường thành tiểu phú, sinh được 4 trai 3 gái, đến năm Nhâm Dần (1782) lũ lụt lớn, mất hết nhà cửa lại quay về huyện Đông Thành, xã Yên Lăng, làng Quan Nội, xóm Thượng Lý, thiết lập đất hương hoả thành nhà buôn lớn. Mộ táng tại Bàu Vạn Thôn. Giỗ ngày 4/3. Sinh đắc các con:
- Trưởng nam Dương Công Hưng, tự Trọng Thông, sinh ở Lãng Điền, không rõ tung tích phần mộ
- Thứ nam DƯƠNG CÔNG LÂM, tự CÔNG CƠ tức Cao tổ họ Dương Thịnh Sơn (được mã số là D.1 dưới đây)
- Thứ thứ nam: Dương Công Thuật (Vệ) mất sớm, giỗ ngày 21/1, mộ táng ruộng mạ đông xóm Thượng
- Con trai út: Dương Công Lý, mất sớm, giổ ngày 16/6, mộ táng tại đông hậu xóm Thượng
- Trưởng nữ: Dương Thị Kính, lấy chồng, con cháu Thài Doãn Thực thờ cúng;
Thứ nữ: Dương Thị Tín không rõ tung tích; Con gái út Dương Thị Luật mất sớm, giỗ ngày 22/7 mộ táng tại ruộng mạ xóm Thượng
2.8. Cao tổ đời thứ 1
Thứ nam DƯƠNG CÔNG LÂM (揚 彸 林) tự CÔNG CƠ (彸 基): sinh năm Nhâm Thìn (1772), giỗ ngày 13/2 là CAO TỔ HỌ DƯƠNG thôn Quan Nội, làng Kim Lỉên nay là xã Thịnh Sơn. Sinh đắc 3 nam 1 nữ:
- Trưởng nam Dương Trọng Hướng (揚 仲 珦) (Chi Trưởng ông Dương Trọng Bắc- Đại Tôn hiện nay)
- Thứ nam Dương Trọng Thuyên (揚 仲 銓) (Thứ chi ông Hùng Trang hiện nay)
- Thứ thứ nam Dương Trọng Cầu (揚 仲 球)(Chi ông Dương Trọng Công Tưởng con ông Lịch)
- Nhất nữ Dương Thị Đẩu (揚 氏 斗) là em gái Dương Trọng Hướng, lấy chồng Lê Nhâm nhưng không có con nên phần ruộng của bà Đẩu được hoàn lại cho 3 Chi để làm nhà thờ 3 Chi họ và xây lăng mộ bà ở ruộng mạ Quyết Điền, hậu xóm Thượng. Bà sinh năm 1805, mất sớm, kị ngày 13/8, không rõ năm mất. Lăng Tổ bà Dương Nhất Nương hiệu Anh Linh Thần Vị ở phía tây bắc xóm Thượng, được con cháu hậu duệ tôn tạo nhiều lần, đặc biệt năm 2024-2025 nâng cấp khang trang thành khu quần thể có hồ sen, đài phun nước, tưởng rào, sân, đường nội bộ và cổng bằng đá tự nhiên
3. Đoạn kết:
Đạo lý làm người là “uống nước nhớ nguồn” (ẩm thủy tư nguyên). Gia phả là gia bảo để con cháu chắt biết cố can ông bà, cha mẹ mình do ai sinh ra, từ đâu đến và luôn ghi nhớ công ơn võng cực của tổ tiên
Dương Trọng Bảng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét